Các phương pháp chẩn đoán c��n đau thắt ngực

19:50 0 Comments

Cơn đau thắt ngực thường là dấu hiệu cảnh báo sự xylynuocmiennam hiện diện của bệnh mạch vành với chừng độ đáng kể. Những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực cũng có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim là tình trạng cơ tim bị chết bởi vì mạch vành bị tắc nghẽn hoàn toàn do cục máu đông. Khi bị đau thắt ngực, tình trạng thiếu oxy của cơ tim là tạm thời và có trạng thái hồi phục được. Tình trạng thiếu oxy của cơ tim bình phục và xulynuocmiennam.com/may-loc-nuoc-nano-cao-cap-cua-usa-my.html" title="máy lọc nước" target="_self" rel="nofollow">máy lọc nước cơn đau ngực biến mất khi bệnh nhân dịp nghỉ ngơi. Ngước lại, những tổn xót thương của cơ trong nhồi máu cơ tim là vĩnh viễn. Cơ tắt hơi đi hóa thành mô sẹo khi lành lại. Tim bị sẹo sẽ chẳng thể bơm máu một cách hiệu quả như một quả tim phẩm bình thường được và có trạng thái dẫn đến suy tim. Trên 25% bệnh nhân dịp bị bệnh mạch vành với chừng độ đáng kể không có triệu chứng gì cả, ngay cả khi rõ ràng gia tộc thiếu máu và oxy nuôi cơ tim. Những bệnh nhân dịp này bị cơn đau thắt ngực "im lặng". Họ cũng có cùng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim với những người bị danh thiếp triệu chứng đau thắt ngực khác.

Cơn đau thắt ngực được chẩn đoán như thế nào?

Điện tâm đồ (ECG, EKG) là bản kết quả hoạt động điện học của cơ tim và có trạng thái phát hiện ra những cơ tim đang cần oxy. Điện tâm đồ đắt giá trị trong việc biểu thị những đổi thay của cơ tim bởi vì thiếu oxy gây ra huyễn hoặc cơn nhồi máu cơ tim.

Nghiệm pháp cố sức

Ở những bệnh nhân dịp có điện tâm đồ được đo lúc ở trạng thái nghỉ ngơi bình phẩm thường thì việc đo điện tâm đồ khi đang vận động huyễn hoặc đang đạp xe đạp có thể là cách tầm rà bổ ích đối với bệnh mạch vành. Khi thực hành nghiệm pháp gắng sức (còn được gọi là điện tâm đồ cố kỉnh sức), ECG sẽ được đo liên tục trong khi bệnh nhân dịp đang đi trên máy tập chạy bộ hoặc đạp xe đạp tại chỗ và gia tăng độ khó của bài tập dần dần. Sự xuất hiện của cơn đau ngực trong khi cố kỉnh sức có thể tương ứng với những đổi thay trên ECG biểu thị sự thiếu oxy của cơ tim. Khi bệnh nhân dịp nghỉ ngơi thì cơn đau thắt ngực cũng như những thay đổi trên ECG biểu hiện sự thiếu oxy của cơ tim cùng biến mất. Tính chính xác của điện tâm đồ cố sức trong chẩn đoán bệnh lý mạch vành ở vào trên dưới 60% đến 70%. Nếu điện tâm đồ cố sức không cho thấy dấu hiệu của bệnh mạch vành, có thể cho thallium theo đường tĩnh mạch trong lúc thực hành nghiệm pháp  cố kỉnh sức. Sự thêm vào của thallium này cho phép ghi hình hạt nhân dịp dòng máu đến những vùng khác nhau của cơ tim bằng một camera gắn ngoài. Sự giảm lưu lượng máu đến một khu vực nào đó của tim trong khi luyện tập và bình thường khi ngơi nghỉ cho biết có một đoạn mạch vành hẹp đáng kể ở vùng ứng của tim.

Siêu âm tim gắng sức

Là thủ pháp kết hợp siêu thanh tim với nghiệm pháp cố sức. Cũng giống như nghiệm pháp thallium cố sức, siêu thanh tim gắng sức chính xác hơn điện tâm đồ cố kỉnh sức trong việc phát hiện ra bệnh mạch vành. Khi động mạch vành hẹp đáng kể, vùng cơ tim được động mạch này cung cấp máu sẽ không co bóp tốt như phần còn lại của cơ tim trong khi nỗ lực sức. Sự bất thường trong hoạt động co bóp của cơ tim có thể được phát hiện văn bằng siêu thanh tim. Siêu âm tim cố gắng sức và thallium cố kỉnh sức đều có độ chuẩn xác vào trên dưới 80% đến 85% trong việc phát hiện bệnh mạch vành ở độ nặng tương đối. Khi bệnh nhân dịp chẳng thể thực hành nghiệm pháp nỗ lực sức bởi chưng những vấn đề thần kinh hoặc cơ xương khớp, may loc nuoc nano các thầy thuốc có thể tiêm thuốc vào tĩnh mạch để tạo ra một tình trạng stress cho tim na ná như khi bệnh nhân đang cố gắng sức. Khi đó hình ảnh của tim có thể được ghi nhận lại bằng camera hạt nhân mê hoặc bằng siêu thanh tim.

Thông tim

Thông tim cùng với chụp huyết quản (chụp mạch vành) là một kỹ thuật cho phép chụp lại hình ảnh X quang quẻ của danh thiếp động mạch vành. Nó là loại khảo sát phát hiện ra hẹp động mạch vành một cách chính xác nhất. Các ống nhựa rỗng nhỏ (catheter) được luồn vào các lỗ mở của danh thiếp động mạch vành dưới sự hướng dẫn của X quang. Thuốc nhuộm cản quang đãng Iod sẽ được tiêm vào danh thiếp động mạch này khi hình ảnh x quang đang được ghi nhận lại. Thủ thuật chụp mạch vành cho phép thầy thuốc có được hình ảnh về vị trí và độ nặng của bệnh động mạch vành. Thông tin này có thể quan yếu trong việc giúp thầy thuốc chọn lọc được những phương pháp điều trị thích hợp.

Chụp mạch vành qua CT

Là thủ thuật tiêm thuốc nhuộm có chứa iod vào tĩnh mạch rồi sau đó chụp CT để ghi nhận lại hình ảnh của danh thiếp động mạch vành. Tuy không phải sử dụng đến các catheter (do đó nó được gọi là một thủ thuật "không xâm lấn") nhưng nó vẫn chứa đựng một số nguy cơ, bao gồm:
  • Bệnh nhân dịp có trạng thái bị dị tương ứng với iod.
  • Bệnh nhân có công năng thận bất thường
  • Tiếp xúc với phóng xạ với mức độ tương đương mê hoặc nhiều hơn so với chụp mạch vành quy ước.
Tuy nhiên, đây vẫn thường là một khảo sát an toàn cho hầu hết mọi rợ người. Nó là dụng cụ quan trọng để chẩn đoán bệnh mạch vành ở những bệnh nhân:
  • Có nguy cơ bị bệnh mạch vành cao (những người hút thuốc lá, những người có nguy cơ di truyền, có nồng độ cholesterol máu cao, tăng huyết áp, huyễn hoặc đái tháo đường).
  • Những người thực hiện nghiệm pháp gắng sức mê hoặc những nghiệm pháp khác cho kết quả nghi ngờ, mê hoặc
  • Những người có các triệu chứng gây nghi ngờ đến bệnh mạch vành.
Theo Y khoa – net

0 nhận xét: